Lịch sử điện ảnh
IV.Phim câm
IV.2.Phim câm của châu Âu
Sau chiến tranh, mọi thứ đã thay đổi với các nhà làm phim ở châu Âu, bị vượt mặt bởi người Mỹ trên khắp mọi nơi, sức mạnh điện ảnh ở Ý và Đan Mạch sụp đổ, trong khi đó các nhà làm phim Đức và Liên bang Xô Viết mới thành lập lại nổi lên, Pháp dẫu không còn thống trị nhưng vần là trung tâm lý luận điện ảnh, về sản xuất phim và về kinh nghiệm sản xuất phim.
IV.2.a.Tại Đức
10 năm sau chiến tranh, công nghiệp điện ảnh Đức phát triển mạnh mẽ nhất ở châu Âu nhay cả khi phải chịu sự xâm nhập thị trường của phim Mỹ và sự ảnh hưởng của những tài năng nổi tiếng đến từ Hollywood. Mặc dù phim ở Đức mang tính thương mại phục vụ cho nhu cầu gải trí nhưng nó vẫn nhấn mạnh điện ảnh là một loại hình nghệ thuật, phải mang lại một sự chú ý đặc biệt trong không gian nhe nhìn, truyền đạt nội dung tới người xem thông qua nghệ thuật quay phim, ánh sáng, dựng cảnh. Mới trải quả chiến tranh, buộc những nhà làm phim Đức phải cố gắng làm sao để những bộ phim thật đặc biệt, vượt qua sự thù địch chiến tranh trên thị trường phim thế giới. Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionism), một trào lưu nghệ thuật sử dụng những hình tượng bóp méo có chủ định để diễn tả cảm xúc, đã ảnh hưởng đến những tác phẩm nổi tiếng sau chiến tranh của điện ảnh Đức. Trong sô đó có tác phẩm Das Kabinett des Dr. Caligari (The Cabinet of Dr. Caligari, 1919) của đạo diễn Robert Wiene, với những cảnh tượng khó hiểu bị bóp méo và câu chuyện về kẻ giết người mộng du bị điều khiển bới một bác sĩ thần bí.
Đứng đầu các nhà làm phim Đức trong thời gian này có Fritz Lang, F. W. Murnau, và G. W. Pabst. Phim của Lang đặc trưng cho cái nhìn là thường về thế giới vật chất trong thần thoại, hiện tại và tương lai. Bộ phim nổ tiếng của ông là Metropolis (1927), phim là câu chuyện ở tương lai với những chiếc cầu xe lửa nằm giữa các cửa hàng của những toà nhà chọc trời trong khi công nhân lại làm việc cực nhọc tại một nhà máy to lớn ở dưới lòng đất. Còn phim của Murnau lại là sự phức tạp tâm lý sâu xa, đáng kể đến những bộ phim về loài quỷ hut máu Nosferatu (1922) và Der letzte Mann (The Last Laugh, 1924). Pabst lại được biết đến là một nhà làm phim thực tế, ông là đạo diễn của bộ phim Die Büchse der Pandora (Pandoras Box, 1928), một bi kịch về tình ái do nữ diễn viên người Mỹ Louise Brooks thủ vai chính Lulu, một cô gái luôn luôn dùng những người mình gặp để thỏa mãn cho bản thân, thậm chí cô còn quyến rũ con trai của chồng, trước sự đố kỵ của người chồng, Lulu đã giết anh ta.
IV.2.b.Tại Liên bang Xô Viết
Năm 1917, nền quân chủ Nga (Russia, thời Sa Hoàng) sụp đổ sau cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại do những người Bôn-sê-vít lãnh đạo, nước Nga từ đây lấy tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Xô Viết (Union of Soviet Socialist Republics), với những sự kiện như vậy, các nhà làm phim trẻ ở Xô Viết hăng hái thiết lập một loại hình nghệ thuật điện ảnh mới dựa trên lý tưởng cách mạng. Phim câm ở Nga trở nên đáng chú ý vì sự kết hợp giữa chính trị với những tiên phong về mỹ học. Những tác phẩm của các nhà làm phim như Sergey Eisenstein và Dziga Vertov tiếp tục đặt ra câu hỏi đầy thách thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, trước hết là những tranh cãi gay gắt trong nước.
Eisenstein, là nhà lý luận cũng nhà nhà làm phim nổi tiếng của Nga lức bấy giờ, bài khóa của ông tại montage (dựng cảnh, French Terms for film editing) đã nói rõ cách những cảnh phim riêng rẻ có thể để cạnh nhau và liên kết chúng lại nhằm tạo ra cảnh có nghĩa và khơi dậy những cảm xúc từ người xem. Ông đã đem những lý luận đó vào những tác phẩm của mình như Stachka (Strike, 1924), Bronenosets Potemkin (Potemkin, 1925), và Oktyabr (October, 1928, còn được biết đến dưới tên Ten Days That Shook the World). Dĩ nhiên nổi tiếng nhất là tập hợp những cảnh dựng của cảnh Odessa Steps trong bộ phim lịch sử Potemkin, gần 155 cảnh quay riêng rẻ trong 4 phút 20 giây nhằm miêu tả sự tàn sát dân chúng của những người lính.
Vertov (Denis A. Kaufman) người tán thành cho thể loại tài liệu hơn là những thước phim hư cấu. Ông cũng nhấn mạnh việc dựng cảnh và điều quan trọng của biên tập phim trong việc tổ chức dựng hình từ những đoạn phim quay ban đầu. Vertove là đạo diễn, biên tập, sản xuất cho loạt phim thời sự Kino-Pravda (Cine-Truth, 1922-1925) và làm những bộ phim tài liệu như Chelovek s kinoapparatom (Man with a Movie Camera, 1929).
IV.2.c.Tại Pháp
Điện ảnh Pháp không còn độc tôn trên thế giới sau chiến tranh, giờ đây nó phải đang tồn tại chật vật. Các nhà lý luận điện ảnh Pháp đặt ra các hạn định như photogenie và cinegraphie để diển tả cách nhìn của họ về điện ảnh, rằng điện ảnh phải làm nổi bật những hình ảnh hơn là sử dụng các rạp chiếu phim để truyền đạt những hành động kịch tính. Những lý luận nhanh chong được áp dụng cho hầu hết các bộ phim ngắn, đáng chú ý là La souriante Madame Beudet (The Smiling Madame Beudet, 1923) của nhà lý luận và làm phim, bà Germaine Dulac, được chú ý qua những bài viết phê bình.
Trào lưu nghệ thuật siêu hiện thực (surrealism), sự kết hợp chặc chẽ giữa những hình ảnh kỳ quái và lấy nó làm sự công kích vào những thực tế hằng ngày, cũng mang lại một khái niệm mới cho việc làm phim. Entracte (1924) của đạo diễn René Clair sử dụng một kỷ xảo đánh lừa người xem từ buổi đầu của điện ảnh để thể hiện cho loạii hình nghệ thuật mới này. Fernand Léger làm phim Le ballet mécanique (1924) và Marcel Duchamp làm Anémic Cinema (Anemic Cinema, 1926) lại sử dụng những thiết kế hoạt hoa hay những vật thể được vẽ. Nhà làm phim đầy tham vọng Abel Gance là đạo diễn của bộ phim Napoléon Bonaparte (1927), cảnh chiến đấu cuối cùng trong phim có sử dụng đến Polyvision, chiếu 3 cảnh cùng 1 lúc.
Các nhà làm phim đến từ các quốc gia khác cũng có những tác phẩm đáng chú ý ở Pháp như đạo diễn người Đan Mạch Carl-Theodor Dreyer of Denmark với phim La passion de Jeanne dArc (The Passion of Joan of Arc, 1928), được xem là kinh điển về chú ý chưa từng có về hiện thực tâm lý. Luis Buñuel, người Tây Ban Nha, là đạo diễn của bộ phim siêu hiện thực Un chien Andalou (An Andalusian Dog, 1929), phim nhanh chóng nổi tiếng bởi những hình tượng xáo động và bình thường.
IV.3.Sự lớn mạnh của phim câm
Đến 1925, Mỹ đã có một nền công nghiệp phim rộng lớn và phim Mỹ vẫn độc tôn trên thị trường thế giới, bên cạnh đó còn kể đến phim của Đức và Nhật, dù phim Nhật phần lớn được sản xuất trước tiên dành cho thị trường trong nước. Có nhiều quốc gia theo đuổi, ấp ủ việc làm phim như một nét văn hóa vật thể quan trọng. Trong suốt thời gian này, điện ảnh đã trở thành phương diện quốc tế, người của nước này có thể sang nước khác để làm phim như Dreyer và Buñuel đã từng làm hay di cư sang nơi khác để phát triển sự nghiệp như Murnau, sau những thành công tại Đức, ông đã sang Hollywood.
Hệ quả xã hội của việc phát triển nhanh chóng này làm nên những cuộc tranh luận gay gắt. Các diễn viên nổi tiếng như Chaplin, Greta Garbo, và Rudolph Valentino được nhiều người mến mộ, sức thu hút của họ có ảnh hưởng đến lối sống bình thường? Thông qua các câu chuyện giả tạo về cuộc sống trên phim ảnh, những hành động tội ác rõ ràng trong từng cảnh quay có làm thay đổi những miền quê hay thị trấn nhỏ vốn yên bình? Những câu hỏi đó đòi hỏi việc kiểm duyệt phải được chú ý nhằm quản lý được những ảnh hưởng của phim ảnh. Việc này có thể làm bằng cách biên tập lại phim trước khi chiếu hay đưa ra những quy định buộc nhà sản xuất phải làm theo.
Khi Hollywood và khắp nơi trên thế giới làm ra hàng trăm bộ phim mỗi năm, phim cần được phân thành các thể loại (genres). Những thể loại đầu tiên là hài kịch (comedy), Viễn đông (the Western), thần thoại (mystery), kinh dị (horror), lãng mạng (romance), kịch melo (melodrama – melody), và chiến tranh (the war story), những thể loại này có thể được biến thể hoặc kết hợp với thể loại khác.
IV.4.Phim tài liệu câm
Phim về những sự việc hiện, có thật đã từng gây chú ý trong những ngày đầu của điện ảnh, sau này lại bị lãng quên bởi những bộ phim truyện với mục đích thương mại trong vòng thập niên thứ 1 đến thứ 2 của thể kỷ 19. Nó dần dần được thay thế bởi những phim thời sự (newsreel), là sự những đoạn phim ngắn được biên tập từ các đoạn tin tức, phim thời sự đã trở thành một chương trình được chiếu trong các rạp chiếu phim. Phim không được hư cấu, được biết đến nhiều hơn dưới tên phim tài liệu được làm để giáo dục hay tuyên truyền mục đích trong thời chiến.
Trong suốt thời gian này, các nhà làm phim tiếp tục khảo sát tỉ mỉ về thế giới xung quanh, mang lại những hình ảnh về con người, nới chốn chưa từng biết đến tới khán giả. Một trong những số đó là Robert Flaherty, người Mỹ, làm nghề mỏ và thăm dò mỏ ở phía bắc Canada, đã ghi lại những hình ảnh về người Eskimo cho tới những phong cách sống đã biến mất, ông đã tạo ra một số tranh cãi trong việc sân khấu hóa các phong tục truyền thống, những thứ sau này sẽ không còn. Flaherty làm bộ phim tài liệu dài Nanook of the North (1922) kể về một người đàn ông Eskimo tên là Nanook, phim được phát hành với mục đích thương mại và đã trở thành một tác phẩm xuất sắc, nhận được nhiều lời đánh giá phê bình. Sau này một studio ở Hollywood gửi ông đến một hòn đảo phía nam Samoa để làm bộ phim thứ 2, Moana (1926). Ernest B. Schoedsack và Merian C. Cooper, 2 nhà làm phim người Mỹ được biết đến qua bộ phim King Kong, cũng đã chuyển sang làm phim ở thể loại này với tác phẩm Chang (1927), một bộ phim tài liệu về du lịch được quay tại Siam (Xiêm, Thái lan ngày nay).
Những nhà làm phim có tiếng ở châu Âu cũng bắt đầu để ý đến thể loại này, những tác phẩm của họ được gọi là city symphonies, cái tên bắt nguồn từ bộ phim tài liệu Đức của Walter Ruttmann có tựa đề Berlin: Die Sinfonie der Grossstadt (Berlin: Symphony of a Great City, 1927), phim nói về hoạt động hàng ngày của thành phố. Còn ở Nga, tác phẩm Chelovek s kinoapparatom (Man with a Movie Camera, 1929) của Vertov (Denis A. Kaufman) là một ví dụ khác về city symphony, về Matxcơva. Tại Pháp, Jean Vigo và Boris Kaufman (anh em với Vertov) thực hiện bộ phim A propos de Nice (On the Subject of Nice, 1930).
V.Phim có âm thanh
Việc thu âm ra đời vào cuối những năm 20 thế kỷ trước đã làm cho điện ảnh thay đổi mãi mãi. Những năm kinh nghiệm đầu tiên, có 2 hệ thống thu âm khác nhau : âm thanh trong đĩa (sound on dics) hoạt động như máy hát và âm thanh trong phim (sound on film), âm thanh được ghi chính xác lên celluloid. Cùng thời gian, các kỹ sư hoàn thành hệ thống khuếch đại cho các rạp chiếu phim, dựa theo một kỹ thuật mới của radio. Được chứng minh lần đầu tiên vào năm 1926, đến năm 1930 việc thu âm trở nên phổ biến trong hầu hết các tác phẩm và phương pháp sound on film đã trở thành chuẩn vì có một số vấn đề về những chiếc đĩa (dics).
V.1.Những thước phim nói đầu tiên
Những năm đầu tiên của việc thu âm đã làm phim câm phải rút lui, camera phải di chuyển ít hơn, diễn viên cũng vậy bởi lý do không thể thu nhiều tiếng ồn từ mơ tô camera hay diễn viên không quá xa microphnone. Thêm vào đó có những sự nghi ngờ về việc giọng nói của các ngôi sao phim câm có phù hợp với phim nói hay không. Tại Hollywood, một làn sóng mới về các diễn viên sân khấu nổi lên từ Broadway (trung tâm giải trí ở New York với những rạp hát, rạp chiếu phim, nhà chơi cho trẻ em, quán bars, nhà hàng).
Những trở ngại ban đầu này nhanh chóng được vượt qua với việc áp dụng công nghệ mới. Camera trở nên linh động với việc được bao bọc bằng những vật liệu cách ly âm thanh, được đặt trên khung có thể di chuyển được bằng các bánh xe cao su. Microphone đã được treo bằng những cánh tay dài hơn gọi là booms, được đưa ra khỏi phạm vi của những camera, diễn viên có thể diễn xuất nhiều hơn. Những tác phẩm ra đời sớm như Applause (1929) của đạo diễn Rouben Mamoulian người Mỹ đã chứng minh sự phong phú các trạng thái của nghệ thuật mới với việc thu tiếng cho phim. Mamoulian sử dụng nhiều nguồn âm thanh khác nhau, như âm thanh cho chuyển cảnh, chuyển âm thanh để nhấn mạnh cảnh quay. Bằng những hiệu ứng, ông cố gắng mang lại những tiêu chuẩn thật tự nhiên và giống thật cho các bộ phim có âm thanh.
V.2.Phim âm nhạc và găngxtơ
Đây là hai thể loại mới mà sự ra đời thu âm mang lại cho điện ảnh. Thể loại phim găngxtơ lôi cuốn công chúng vì sự dính liếu tới tội ác của những ông trùm khét tiếng, nhiều tội ác phát sinh từ các hoạt động phạm pháp trong giai đoạn Prohibition (cấm việc sản xuất và buôn bán các đồ uống có liên quan tới rượu ở Mỹ từ 1920 đến 1933). Những bộ phim găngxtơ đầu tiên đã lợi dụng sự nổi loạn giữa các trùm. Little Caesar (1930) đưa diễn viên Edward G. Robinson trở thành ngôi sao khi thủ vai trùm Rico Bandello còn diễn viên James Cagney lại có tiếng tăm khi vào vai một cách sinh động trùm Tom Powers trong The Public Enemy(1931).
So với thể loại găngxtơ, thì sự ra đời của phim âm nhạc có vẽ như là kết quả hợp lôgíc hơn khi việc thu âm ra đời, thể loại này đã lôi cuốn khán giả bắt đầu từ những sân khấu Broadway nhưng để trở nên phổ biến và nổi tiếng thì phải chờ đến lúc Warner Bros cho ra mắt series phim âm nhạc phá vở những lệ thường trên sân khấu. Phim được quay những nhóm vũ công số lượng nhiều với nhiều điểm nhấn để tạo nét riêng chỉ có điện ảnh mới có, những bộ phim như thế bao gồm 42nd Street, Gold Diggers of 1933 (1993), Footlight Parade ( 1933), tất cả đều được biên đạo múa người Mỹ Busby Berkeley dàn dựng. Một loại hình khác của phim âm nhạc là tập trung vào những diễn viên đặc biệt trong nhóm múa, ví dụ như Fred Astaire và Ginger Rogers trong Flying down to Rio (1933), Top Hat (1935) và Swing Time (1936).
V.3.Phim kinh dị
Không phải là thể loại mới nhưng đến khi có những hiệu ứng âm thanh ra đời thì phim kinh dị mới có được “nguồn sức mạnh” của mình. Tiếng nói nặng nề của diễn viên Bela Lugosi gốc Hungari mang lại sự sợ hãi “mới” tới các khán giả trong Dracula (1931) bởi đạo diễn Tod Browning người Mỹ. Trong Frankenstein (1931), đạo diễn gốc Anh James Whale và diễn viên gốc Anh Boris Karloff đã miêu tả đầy biểu cảm đến ngạc nhiên về một quái vật ì ạch kéo lết đi được mang tới cuộc sống bởi một nhà khoa học đầy tham vọng. Cả 2 bộ phim trên đều là những tác phẩm làm lại từ những bộ phim câm, và cả hai đều trở thành kinh điển với nhiều sự thay đổi.
V.4.Hệ thống các Studio và phương tiện quảng bá các ngôi sao
Âm thanh trong phim ra đời hình thành lại hệ thống studio ở Hollywood. 5 công ty lớn nhất – Fox (sau này là Twentieth-Century Fox), Loews Incorporated (sau này là Metro Goldwyn Mayer, MGM), Paramount, RKO (Radio Keith Orpheum) và Warner Bros. – hoạt động như các nhà sản xuất, phát hành và trình chiếu. Universal, Columbia, và United Artists cũng quan trọng nhưng họ không còn rạp chiếu phim cho riêng mình. Các đạo diễn và diễn viên làm việc tại studio qua hợp đồng dài hạn, các studio phát triển hệ thống các ngôi sao, nhằm quảng cáo và bán phim. Những phương diễn quảng bá các ngôi sao được tạo ra khéo léo nhằm thể hiện hết sức đặc biệt về những ngôi sao của mỗi studio
Âm thanh đã làm tăng lên sự khát khao của các nhóm tôn giáo và những nhà cãi cách xã hội trong việc kiểm soát nội dung phim. Trong khi ban kiểm duyệt của địa phương và bang vẫn tồn tại, dưới những sức ép, luật xuất bản (Prodution Code) ra đời năm 1930, và được củng cố bằng cách thêm vào người quản lý luật xuất bản (Production Code Administration) năm 1934. Đó là người theo dõi kịch bản, bộ phim hoàn thành và loại trừ các đoạn hội thoại, cảnh vi phạm đến những quy tắc của luật về việc thể hiện sex, tội phạm, sử dụng ma túy độc dược và cách hành vi đạo đức khác. Luật này có hiệu lực đến giữa những năm 1960.
V.5.Những sự phát triển ở châu Âu
Các nhà phát minh ở châu Âu cũng phát triển các thệ thống thu âm trong suốt những năm 1920, đến năm 1930, hội nghị quốc tế những nhà giữ bằng sáng chế đi đến thỏa thuận chung chung cho rằng những trang chấp về tính hợp phát sẽ không thay đổi tới âm thanh. Các nhà làm phim ở châu Âu, cùng với Hollywood, đã chuyển sang làm phim nói cuối những năm 1920.
V.5.a.Tại Anh
Phim Anh hi vọng phát triển với sức mạnh sân khấu truyền thống và âm thanh. Đạo diễn Alexander Korda đã tác động mạnh tới quốc tế thông qua The Private Life of Henry VIII (1933), với sự tham gia diễn xuất của Charles Laughton còn Alfred Hitchcock đạo diễn của những bộ phim trinh thám và tình báo nổi tiếng như The 39 Step (1935). Trong những năm 1930, phim Anh phát triển các bộ phim tài liệu đặc biệt, với sự tài trợ của chính phủ và sự chỉ đạo của John Grierson, đạo diễn Night Mail (1936). Đạo diễn Michael Powell, David Lean và Carol Reed làm những bộ phim tường thuật quan trọng trong suốt giai đoạn thế chiến I, trong khi những bộ phim tài liệu kể lại chiến tranh được làm bởi những nhà sản xuất như Humphrey Jennings.
V.5.b.Tại Pháp
Một phong cách dễ phân biệt của các nhà làm phim gọi là hiện thực thơ ca nổi lên tại Pháp trong suốt thời gian này. Nó nhấn mạnh khía cạnh mỹ học hơn là hiện thực của đời sống hằng ngày. Đi đầu cho trào lưu này là đạo diễn Jean Vigo với L’atalante (1934) và Marcel Carné với Le jour se lève (Daybreak, 1939). Đạo diễn nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là Jean Renoir, với những tác phẩm hay như Le grande illusion (Grand Illusion, 1937) và La règle du jeu (Rules of the Game, 1939).
V.5.c.Tại Đức
Fritz Lang and G. W. Pabst, những người đi đầu trong thời kỳ phim câm, cũng đã làm những tác phẩm có âm thanh từ rất sớm. Lang với M ((1931) and Pabst with Kameradschaft (Comradeship, 1931). Nhưng trào lưu phim nghệ thuật cũng đến hồi kết thúc khi đảng Quốc xã (National Socialist party) của Adolf Hitler lên nắm quyền lực năm 1933. Rất nhiều nhà làm phim chạy trốn khỏi Đức vì chống đối với Quốc xã hay sợ sự ngược đãi. Sau khi nắm quyền hành trong sản xuất phim, Quốc xã bắt đầu làm những bộ phim tuyên truyền. Đạo diễn và diễn viên Leni Riefenstahl làm phim để ca ngợi đảng Quốc xã. Nhưng các nhà tuyên truyền nhanh chóng nhận ra sẽ có hiệu quả truyền đạt hơn dưới hình thức giải trí, thê là họ làm nhiều phim ở thể loại comedy và drama.
V.5.d.Tại Liên Xô
Âm thanh ra đời cùng lúc với những thay đổi về chính trị tại Liên bang Xô Viết. Những bộ phim nghệ thuật cũng có lời chấm dứt như ở Đức. Chính phủ đặt ra học thuyết mới gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa (socialist realism), học thuyết này chứa đựng những phong cách đơn giản và những câu chuyện làm phương tiện truyền bá cho chính trị. Những nhà làm phim như Sergey Eisenstein không còn có thể sản xuất những bộ phim hoàn chỉnh. Dẫu bầu không khí căng thẳng giữa Quốc xã Đức và Xô Viết ngày càng tăng lên đã làm Eisenstein thay đổi và làm ra Alexandr Nevskii (Alexander Nevsky, 1938), một thiên anh hùng ca lịch sử ở thế kỷ 13 nói về người dân Nga đẩy lùi sự xâm chiếm của các hiệp sĩ Đức.
V.6.Phim tài liệu Mỹ
Như ở Anh, trào lưu phim tài liệu phát triển ở Mỹ trong suốt những năm 1930, với sự góp mặt của cả những nhà làm phim và chính quyền liên bang. Năm 1935, tạp chí Time làm một series phim tại liệu hàng tháng có tên The March of Time cho đến tận 1935. Pare Lorentz, từng là nhà báo, làm 2 phim về thời kỳ sa sút của nông nghiệp và hậu quả môi trường là The Plow that Broke the Plains (1936) và The River (1937) cho bộ Nông nghiệp. Trong suốt chiến tranh thứ II, Frank Capra, John Ford, William Wyler, John Huston và các đạo diễn Hollywood khác tham gia vào lực lượng quân sự và làm những bộ phim kể về chiến tranh. Capra với series Why We Fight (1942-1945), 7 tập phim cố gắng giải thích tại sao lại có chiến tranh và lý do Mỹ tham chiến. Tác phẩm The Battle of San Pietro (1945) của Huston lại khắc họa dự ác liệt của chiến tranh trong chiến dịch Italy.
V.7.Phim hoạt hình
Phim hoạt hình trở nên phổ biến với việc ra đời của phim có âm thanh. Trong hầu hết lịch sử của mình, phim hoạt hình buộc các nhà làm phim ghi lại một loạt các bức vẽ trong từng khung hình. Khi chiếu, những khung hình liên tiếp mang đến ảo giác về chuyển động (đến những năm 1990, sử dụng máy tính để làm phim hoạt hình trở nên phổ biến). Steamboat Willie (1928) là bộ phim hoạt hình có tiếng đầu tiên được làm bởi Walt Disney, và đó là bộ phim thứ ba về nhân vật chuột Mickey nổi tiếng. Disney là người tiên phong trong việc làm phim hoạt hình màu với công nghệ phim màu (three-color Technicolor – vàng, đỏ và xanh) trong bộ phim ngắn Flowers and Trees (1932) và bộ phim hoạt hình dài đầu tiên có màu là Snow White and the Seven Dwarfs (1937).
V.8.Orson Welles
Năm 1939, Orson Welles, một con người thần kỳ 24 tuổi, đến Hollywood sau khi thành công ở lĩnh vực sân khấu và phát thanh để sản xuất, đạo diễn, đồng kịch bản và ngôi sao trong Citizen Kane (1941), phim được xem hiện tượng đặc biệt trong các bộ phim mang tính thương mại của Mỹ đã từng làm. Phim nói về một câu chuyện hư cấu về nhà tư bản Charles Foster Kane, một nhân vật dựa theo hình tượng có thật của chủ báo William Randolph Hearst, thông qua những quan điểm phức tạp qua câu nói đầy bí ẩn của người đàn ông chết, Rosebud. Cái độc đáo của phim là kết quả từ những kỷ thuật thông thường, tập trung và kết hợp tất cả những cảnh gần nhau : duy trì tập trung có chiều sâu, lợi dụng góc độ thấp và cao của camera, và những cảnh quay dài và sử dụng âm thanh, ánh sáng như một thiết bị biên tập. Welles tiếp tục tiến dài trong sự nghiệp đóng phim và làm phim cho dù không một thành công sau này đạt đến đỉnh như bộ phim đầu tiên, Citizen Kane.
VI.Sự phát triển của phim màu
Những ngày đầu của điện ảnh, những bộ phim gợi cho chúng ta sự im lặng và đen trắng, không có âm thanh và cũng chẳng có màu sắc, đôi khi làm chúng ta nghĩ ngày xưa thế giới thực chỉ có 2 màu! Ban đầu để có thể làm phim màu, không cách gì khác là sự cần cù trong việc “tô màu” từng khung hình. Về sau, những chiếc máy “tô màu” được phát triển, phim dương bản đen trằng được đặt trong thuốc nhuộm, máy này xử lý hiệu ứng màu sắc cho từng đoạn phim. Năm 1908, Kinemacolor ra đời sử dụng bộ lọc màu đỏ và màu xanh (lá cây) trong cả máy quay lẫn máy chiếu để tạo ra những màu sắc tự nhiên.
Các cố gắng trong suốt những năm 1920 đã mang lại sự thay đổi trong việc thực hiện phim màu, những bộ lọc hay những thiết bị đặc biệt trong máy chiếu không còn cần thiết nữa, Technicolor, công nghệ làm phim màu đầu tiên sử dụng phim âm bản 2 màu được trộn vào nhau trong phim dương bản, và sau này, với hệ thống chuyển đổi nhuộm màu, cho phép 2 phim âm bản được in thành những phinm dương bản riêng rẻ. Bộ phim màu dài đầu tiên ra mắt năm 1922, công nghệ 2-color Technicolor được sử dụng đến năm 1930, và 10 năm sau này với nhiều sự cải tiến, công nghệ 3-color Technicolor ra đời, và được Disney sử dụng trong những bộ phim hoạt hình. Becky Sharp (1935) của đạo diễn người Mỹ Rouben Mamoulian là bộ phim dài đầu tiên sử dụng công nghệ này.
Việc sử dụng màu sắc trong phim vẫn còn chưa phổ biến cho đến tận những năm 1950, khi Hollywood chuyển sang làm phim màu nhằm tạo nên những bộ phim khác biệt để ngăn chặn sự vươn lên của phương tiện truyền hình (lúc này truyền hình cũng như điện ảnh vẫn còn trắng đen). Những cải tiến và đơn giản hóa của công nghệ màu làm cho phim màu trở thành chuẩn và đến những năm 1960, phim trắng đen bị loại trừ ở Mỹ và sau đó ở các quốc gia khác.
To be continued…
Leave a Reply
You must be logged in to post a comment.