Sofia Coppola, đứa con thứ 3 và là con gái duy nhất của Francis Ford và Eleanor Coppola, chào đời vào mùa xuân năm 1971, đó cũng là thời điểm mà cha cô đang thực hiện bộ phim The God Father. Đến lúc cuối phim, trong 1 cảnh rửa tội, Eleanor Coppola đã không ngần ngại khi đưa cô con gái mới sinh của mình ra trước ống kính, để rồi bộ phim trở thành cảnh quay ngẫu hứng đầu tiên của Sofia trong đời. Eleanor Coppola đã tìm thêm 1 vai nhỏ cho Sofia trong phần 2, The God Father II, trước khi những kinh nghiệm đáng nhớ của cô, trong bộ phim ầm ĩ, Apocalyse, được thu lại trong phần tư liệu của phim Hearts of Darkness năm 1991.
Sofia tiếp tục xuất hiện trong những phim của cha cô trong những năm đầu thập kỷ 80, và trong phim Anna năm 1987. Không cần đợi đến lúc cộng tác chung với cha mình trong 1 tuyển tập về những câu chuyện ở New York, the New York Stories, Sofia đã bắt đầu thu hút dc nhiều sự chú ý cho dù đó là sự dèm pha từ dư luận. Đó là khi cô và mẹ cùng hợp tác viết 1 đoạn phim dài nửa tiếng về cuộc sống tưởng của trẻ em, Life Without Zoe. Tuy nhiên trong vai trò là nhà thiết kế trang fục cho bộ phim, Sofia (lúc này 17 tuổi) đã thiết kế cho các nhân vật chính những bộ trang fục rườm ra đầy dây nhợ và trang sức, đó là lý do tại sao Sofia nhận dc những lời chỉ trích của người xem vì bộ phim nửa vời, không hẳn cho người lớn, mà cũng không hẳn dành cho trẻ em. Sau sự kiện đó, Sofia rút lui khỏi fim ảnh và tập trung vào thiết kế thời trang.
Vai diễn đầu tiên của cô trong phần 3 của The God Father đã đem về cho cô 2 giải Mâm Xôi Vàng, nữ dv fụ tệ nhất và ngôi sao mới tệ nhất. Sự nghiệp của cô trở thành trò đùa như là 1 dv nghiệp dư vô vọng và hài hước 1 cách lố bịch trên sàn diễn. 1 lần nữa Sofia chùn bước trước Holywood.
Sau đó cô ghi danh vào học viện nghệ thuật California chuyên ngành nhiếp ảnh và fục trang cho phim ngắn. Sau đó cô cùng bạn bè dựng TV series High Octane, nhưng series này phải kết thúc năm 1984, chỉ sau 4 phần chiếu, và Sofia quay sang làm việc chung với anh trai mình trong những video clip. Trong thời gian này, cô đọc quyển tiếu thuyết The Virgin Suicides, và bắt tay vào viết kịch bản dựa trên quyển truyện này với khá nhiều pha hot hot và bạo lực. Muse Productions, chủ sỡ hữu của quyển sách, chú ý đến kịch bản của cô và đã dựng thành phim với James Woods, Kathleen Turner, và Kirsten Dunst. Và bộ phim đã nhận dc nhiều lời khen ngợi từ báo giới năm 99 tại LHP Cannes.
Mùa hè 1999, cô kết hôn với nhà đạo diễn Spike Jonze (phim Being John Malkovich), người mà cô gặp trong loạt phim ca nhạc Sonic Youth.
Năm 2003, Sofia viết kịch bản và đạo diễn bộ phim Lost in Translation, dựa trên pha quảng cáo rựu bia của cha cô với Akira Kurosawa vào giữa thập niên 70s; ký ức của cô về 1 chuyên gia trong ngành thời trang và cả kinh nghiệm của bản thân cô. Bộ phim đã mang về cho cô Golden Globe awards cho Best Screenplay and Picture (Comedy), và dc đề cử cho Best Director, Picture, and Original Screenplay Oscars.
Trong phim này, mối quan hệ rạn nứt giữa nữ nhân vật chính và chồng, dc diễn tả giống như cuộc hôn nhân tan vỡ giữa Sofia và chồng vào tháng 12 năm 2003.
dịch và tổng hợp theo Yahoo! Movies)
2003-2023