Khi Ca Sĩ Đóng Phim

Được thành công ở cả hai lãnh vực âm nhạc và điện ảnh thật không phải là điều dễ dàng . Có rất nhiều những tên tuổi đã thất bại . Nhiều ca sĩ bắt đầu từ những quán bar đầy khói thuốc mịt mờ, bao quanh bởi những tên say rượu có mùi nồng nặc, sau đó họ phải đi đến từng công ty thu đĩa nhạc để năn nỉ, xin xỏ, chỉ có mỗi 1 mục đích là có 1 bản nhạc của chính mình được trợ cấp tiền bạc để ra đĩa riêng .

Sau đó , nếu may mắn, sẽ được mời đến biểu diễn ở những nơi khang trang hơn 1 chút, nhưng chịu bao nhiêu bất công vì những ông bầu không phải ai cũng tốt . Họ phải ký những hợp đồng mà những điều kiện đưa ra không lấy gì làm hay ho cho lắm . Đâu đó luôn luôn có những cái bẫy đến từ những công ty thu băng, quảng cáo … luôn chờ chực để tiêu diệt 1 tài năng đang chỉ mới hé nụ .

Và khi mà 1 số ít trải qua được giai đoạn đầu , liệu họ có giành ra 1 ít thời gian để giữ vị trí của mình trong làng ca nhạc không ? Tất nhiên là không . Ngay từ khi mới có danh tiếng trong làng ca nhạc, họ lại bắt đầu mơ tưởng tới ngành điện ảnh hào nhoáng . Không ít người trong họ không bao giờ cảm thấy thoả mãn với những gì mình đang có .

Will Smith, nam diễn viên vai chính trong “I, Robot”, phim khởi chiếu trong mùa hè năm 2004, bắt đầu là 1 ca sĩ nhạc rap , rồi sau đó đóng vai chính trong phim truyền hình hài “The Fresh Prince of Bel Air ” trước khi anh trở lên nổi tiếng ớ màn ảnh rộng . Rất nhiều nghệ sĩ đã đi trước hoặc sau anh, nhưng không phải ai cũng may mắn được thành công như thế .

Không có 1 công thức nào để nắm chắc thành công trong tay khi 1 nghệ sĩ muốn chuyển từ âm nhạc qua điện ảnh . Tất cả chỉ dựa vào tài năng và cách lèo lái của mỗi người , cộng thêm 1 ít may mắn , tốt hay xấu thì không ai có thể điều khiển được . Cái mà luôn ở trước mắt không thay đổi chính là ảo tưởng . Không cần biết họ có thích hợp để nhảy qua làng điện ảnh hay không, ảo tưởng sáng lạng luôn là sức mạnh lôi cuốn họ vào dòng xoáy .

Đôi khi kết quả khá khả quan, nhưng đôi khi khán giả chỉ muốn 1 nghệ sĩ nào đó hãy tỉnh mộng và hãy trớ về với sân khấu ca nhạc .

Sau đây là những ví dụ điển hình của 1 số nghệ sĩ từ sân khấu ca nhạc lại nhảy qua màn ảnh rộng , bao gồm những ví dụ thành công và những ví dụ cho sự thất bại nặng nề . Những ví dụ này có thể đưa ra tranh cãi nhưng nó chỉ là những điển hình xuất hiện trong đầu người viết bài này trong thời gian nhất thời và chỉ rút ra từ sự quan sát bao quát .

Đa số các trường hợp 1 số nghệ sĩ thành công là do họ đóng vai có tính cách giống họ ngoài đời, hoặc là khán giả thích tính cách nhân vật đó . Đối với những nghệ sĩ gặp thất bại, chúng ta chỉ có thể nói rằng khán giả ruột của họ không muốn thần tượng của mình phái gồng mình đóng phim khi mà đóng phim không phải là cái duyên của họ .

NHỮNG ĐIỂN HÌNH THÀNH CÔNG

Cher : cô ca sĩ đã không đóng phim trong 5 năm nay, từ khi phim “Tea With Mussolini ” trình chiếu, nhưng trong quá khứ , cô đã nhận được không ít lời khen từ những phim “Come Back to the Five and Dime, Jimmy Dean, Jimmy Dean” “Silkwood” và “Mask” . Sau đóng cô đã được công nhận tài năng diễn xuất với giải Oscar cho nữ diễn viên suất sắc với phim “Moonstruck” . Trong thời gian mới nhận giải, cô đã đặt sự nghiệp điện ảnh của mình lên cả sự nghiệp âm nhạc mà lâu nay cô đã có .

Kris Kristofferson: từ 1 viên chỉ huy trong quân đội, 1 phi công trực thăng lại trở thành nhạc sĩ viết nhạc cho ca sĩ Johnny Cash . Nă, 1971, ông bắt đầu đóng phim và đến nay đã có hơn 80 phim điện ảnh và truyền hình ông đã đóng qua . Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất là những phim “The Sailor Who Fell From Grace With The Sea” , “A Star is Born” và “Semi-Tough” . Ông đã bị thất bại khi đóng trong phim “Heaven ‘s Gate ” cúa đạo diễn Micheal Cimino vào năm 1980 , nhưng đến nay ông vẫn đang giữ sự nghiệp mình tốt đẹp .

Frank Sinatra: những đóng góp của ông không thể nào chối cãi được . Đa số biết đến ông bởi giải Oscar cho diễn viên nam phụ suất sắc nhất vào năm 1953 trong phim “From Here to Eternity ” nhưng họ lại quên rằng ông đã từng được đề cử cho giải Oscar nam diễn viên chính suất sắc nhất 2 năm sau đó với phim “The Man With the Golden Arm ” . Sau đó, ông đóng 1 số vai khác, và nổi tiếng nhất là phim “The Manchurian Candidate ”

Burl Ives : thật khó mà nói ngành giải trí nào đến với ông trước, ca nhạc hay điện ảnh , bởi vì ông tham gia cả 2 nghành gần như cùng 1 lúc . Nhưng ông trở thành ca sĩ nổi tiếng vào thập nên ’40 và ’50 với tổng cộng tất cả 42 albums . Bên cạnh ca hát, ông còn diễn trên sân khấu kịch và màn ảnh rộng . Có lẽ ông được biết tới nhiều nhất với vai Big Daddy tron gphim “Cat on the Hot Tin Roof ” vào năm 1958 bên cạnh Paul Newman và Elizabeth Taylor . Bên cạnh đó, ông là huyền thoại của Giáng sinh khi lồnng tiếng cho vai Sam the Snowman cho phim hoạt hình “Rudolph, the Red-Nosed Reindeer.”

Barbra Streisand : Babs bắt đầu nổi từ năm 1962 với 1 vai trong vớ kịch mang tên “I Can Get It For You Wholesale ” . Đó là vai đưa bà tới album nổi tiếng đầu tiên vào năm 1963 .Sau đó là vở kịch “Funny Girl ” , rồi đến phim cùng tên , trong phim này, bà đã thắng giái Oscar cho giái nữ diễn viên chính suất sắc . Bà là người đầu tiên thắng các giải thưởng nổi tiếng như Grammy, Emmy, Oscar và Tony . Bà cũng là đạo diễn tài năng .

Elvis Presley: Ông hoàng này đã đem lại làng sóng nhạc của người Mỹ đen vào nền âm nhạc Mỹ trắng lâu nay . Sau đó ông đã xuất hiện trong 31 phim , đa số là phim tình cảm với nhiều màn ca hát . Đa số phim ông đóng đều nổi tiếng tuy là ông không thể nào so sánh với Laurence Olivier hoặc Marlon Brando . Phim “King Creole” vào năm 1958 có lẽ là phim ông đóng được khen nhiều nhất .

Bette Midler: Đây là nữ diễn viên đóng nhiều phim nổi tiếng như “Ruthless People”, “Outrageous Fortune” và “beahces” . Vai đầu tiên là trong him “The Rose ” , đây là phim đã cho bà được đề củ giải oscar . Tuy là đa số phim bà đóng là phim hài , bà rất là nghiêm chỉnh chọn lựa những vai mình đóng .

Dwight Yoakam: nhiều người cho rằng anh là 1 ca sĩ nhạc đồng quê ở thập niên ’80 nhưng người tình đầu tiên cúa anh không phải là ca nhạc mà là điện ảnh . Sau khi anh bán chạy các bản nhạc của mình, ông đã gia nhập làng điện ảnh . Vai đầu tiên là 1 vai trong phim “Red Rock West” vào năm 1992 . Anh có vai gây ấn tượng là vai ác Doyle bên cạnh Billy Bob Thornton trong “Sling Blade ” . Ông luôn giữ thành công ở cả 2 nơi cho đến nay .

Queen Latifah: thật khó mà nghĩ tới cô là nữ ca sĩ nhạc Rap đầu tiên nữa . Nhưng đó là khởi đầu của cô vào năm 1980, cô là 1 nữ ca sĩ nhạc rap đầu tiên trong số những nam ca sĩ nhạc rap luôn được tôn trọng và yêu quý . Vai đầu tiên của cô là trong phim “Jungle Fever ” của đạo diễn Spike Lee trong năm 1991 . Sau đó là phim “Set It Off”, “The Bone Collector ” và “Bringing Down the House . ” Cô được đề cử cho vai nữ cai ngục trong phim “Chicago ” .

Mark Wahlberg: Brother Donnie là cái tên ban nhạc đã đưa anh nổi tiếng trong làng nhạc rap . Bên cạnh những scandal về mình, và những lời nói về giới đồng tình luyến ái đã làm tên tuổi ca nhạc anh đi xuống . Thế rồi anh từ bỏ tên Marky Mark trong làng âm nhạc để học diễn xuất . Vai đầu tiên là trong phim “Renaissance Man ” và kế tiếp là “The Basketball Diaries” , “Fear”, và “Three Kings. ” Những nhà phê bình và khán giả đã yêu thích anh đến nỗi họ quên đi những gì anh đã làm khi còn trẻ

Những Tên Tuổi Thành Công Đáng Chú Ý Khác : Will Smith, Dolly Parton, Steve Van Zandt, Ice T, Ice Cube, Tom Waits, Donnie Wahlberg, Lyle Lovett, Harry Connick Jr., Mandy Moore, Snoop Dogg, Bing Crosby, Diana Ross, Mos Def, Olivia Newton-John, Gwen Stefani.

NHỮNG ĐIỂN HÌNH THẤT BẠI

Mariah Carey: cô có một giọng hát trời phú , bởi vì có tài đó, cô đã phát hành ít nhất 125 triệu đĩa nhạc được bán trên toàn thế giới và 15 bài hát được xếp hạng 1 trên bảng xếp hạng . Nhưng khi phim “Glitter” ra mắt , không ít khán giả phải tự hỏi : ” Cô ta suy nghĩ gì vậy ? ” . Phim tệ đến nỗi người ta nghĩ cô phải nên bị phạt và làm phục vụ công cộng để đền bù lỗi lầm này .

Britney Spears: Đây là một ca sĩ đi lên nhờ công nhiệp thương mại quáng cáo , sau đó, cô đã dùng cách này để có chen chân vào nền điện ảnh Hollywood với phim “Crossroads” , trong phim cô đóng 1 trong 3 cô gái trẻ đi tìm ý nghĩa của tình bạn . Qua phim này, ngoài kịch bản tệ, đóng tệ và đạo diễn tệ ra, nó còn nói cho cô biết rằng có lẽ cô nên chỉ đóng quảng cáo nước ngọt và gây scandal bằng cách kết hôn vội vàng thì đã đủ rồi .

Jennifer Lopez: Có thể có người cho rằng không công bằng chút nào khi cho cô vào danh sách thất bại này bởi vì họ cho rằng cô cũng có tài diễn xuất đó chứ . Năm 1998, cô đã nổi trội trong phim “Out of Sight của đạo diễn Steven Soderbergh bên cạnh George Clooney . Nhưng trước khi cô kịp thành công ở điện ảnh thì cô đã bị cuốn vào những thị phi và đã có những quyết định không sáng suốt . Bây giờ khó có thể mà coi cô là 1 diễn viên chân chính thực sự . Trong “Angel Eyes”, “Enough”, “Maid in Manhattan “, và dĩ nhiên không thể không nhắc tới “Gigli” , đó là chưa kể tới đời sống riêng tư của cô, chính cô đã huỷ đi cơ hội thành công trong ngành điện ảnh của chính mình .



Paul Simon: Ông là nhạc sĩ có tài, ông cũng đã thành công khi đóng vai nhà sản xuất băng nhạc Tony Lacey trong phim “Annie Hall” , nhưng khi ông đóng vai chính Jonal trong phim “One Trick Pony ” vào năm 1980 thì ông đã thất bại hoàn toàn . Có thể nói rằng nghề diễn của ông như ” cây cầu bắt ngang làn sóng lớn, và tự ông quyết định không đóng phim nữa, quyết định này thật chính xác, vì như thế thì ông sẽ có nhiều thời gian để bỏ vào ngành âm nhạc hơn .

Madonna: The Material Girl đã được chấm điểm cho qua khi cô đóng trong hai phim “Desperately Seeking Susan” và “Dick Tracy.” Nhưng với “The Razzies”, phim được xem là một trong những phim dở nhất tại Hollywood , cô đã phá hủy tất cả những gì mình đã cố công tạo được . Nếu nói về nổi tiếng lâu dài, thì không ai qua nổi Madonna , nhưng cô đã tự làm xấu hổ mình khi đóng trong các phim “Shanghai Surprise” (1986), “Body of Evidence” (1993) và “Swept Away” (2002).

Shaquille O’Neal: Ok, Ok, biết rõ là anh bắt đầu từ bóng rổ nhưng bên cạnh đó, một người nào đó đã thông minh khuyến khích anh đi hát và anh đã trớ thành ca sĩ nhạc rap . Hai album đầu tiên của anh đã bán được hơn nửa triệu bản mỗi album . Chắc cũng chính cái tên quái quỷ đó xúi anh đi đóng phim . Năm 1994, trong “Blue Chips” , phim này may là anh không đóng vai chính . Trong “Kazaam” và “Steel”, anh đã không may mắn . Hai phim này đã góp phần cho việc anh bị đẩy từ Los Angeles tới Miami, nhưng có thể anh vẫn muốn đóng phim tiếp .

Whitney Houston: với danh 1 ca sĩ , cô không hổ thẹn là 1 tinh anh, nhưng nói về diễn, có lẽ cô nên giữ sức lại để hát thì hơn . Hai vai tệ có thể nhắc ngay đến là 2 vai trong 2 phim “The Bodyguard” và “The Preacher’s Wife.” Bên cạnh đó, đời tư của cô cũng gặp nhiều trắc trở . Chuyện giữa cô và chồng là Bobby Brown đã làm tổn hại không ít tới danh tiếng của cô .

Rick Springfield: Ông bắt đầu là nhạc công cho 1 ban nhạc Úc, nhưng đã không thành công trong nhiều năm . Trên cuộc hành trình trở thành 1 ngôi sao nhạc rock, ông đã đóng 1 vài vai cho chương trình truyền hình của Mỹ , bên cạnh thành công vào vai bác sĩ Noah Drake trong phim truyền hình “General Hospital . Sau đó thì sư nghiệp diễn xuất của ông đi xuống 1 cách nhanh chóng . Ông có 1 bài hát được xếp hạng 1 là “Jessie’s Girl ” và sau đó ông thử diễn qua màn ảnh rộng . Vai điện ánh đầu tiên của ông là trong phim “Hard to Hold” , đây là 1 ví dụ tương tự như phim “Glitter” cúa Mariah Carrey .

Ringo Starr: từ tay trống cúa Beatle để trớ thành 1 diễn viên hài thật không mấy hay ho cho lắm . Ông là 1 nghệ sĩ tốt, được yêu mến, nhưng không có nghĩa là diễn xuất của anh được ưa chuộng . Nếu ông cần tiền, có lẽ ông nên bán đi 1 số vật lưu niệm còn hơn là vào vai trong cái phim “The Magic Christian” và “Caveman.” Có lẽ ông cũng biết ra thất bại của mình khi đã 15 năm rồi ông chưa đóng phim lại .

Eddie Fisher: ông là 1 trong ca sĩ nổi tiếng nhất thập niên 1950s, và kết hôn với Debbie Reynolds. Có thể sau này ông sẽ tả chính mình vào thời đại đó như ” nổi tiếng hơn the Beatles, hơn cá Elvis và qua mặt cả Sinatra . ” Với số khán giả to lớn, ông có thể đúng với khái niệm đó . Nhưng chỉ tham gia 2 phim thôi thì ông đã bị thất bại . Phim đầu tiên là “Bundle of Joy” , một phim ca nhạc vào năm 1956 với vợ là Debbke Reynolds. Sau khi chuyện tình cám giữa ông và nữ diễn viên Elizabeth Taylor bị phát hiện không lâu, ông đã đóng chung với Taylor trong “Butterfield 1960 ” . Cá 2 phim này đều không thành công và sự nghiệp của ông cũng đi xuống từ đó .

Theo Newsweek


Posted

in

by

Comments

7 responses to “Khi Ca Sĩ Đóng Phim”

  1. bros Avatar
    bros

    Britney … 1 trái mâm xôi chính hiệu !

  2. psyko Avatar
    psyko

    Psyko cũng thấy giống giống bài dịch ý kiến trên là cho người viết bài chứ không phải người dịch bài đâu.

    Không bít Mandy Moore được khen nhiều hay không nhưng psyko chỉ nêu ý kiến cá nhân thui, psyko không thích MM lắm

    Snoop D-O-double G thì chỉ đóng vai “pimp” thui nên khá là phải, nghề “ruột” mà I like him as a rapper, i just dont think he’s a good actor, thats all.

  3. neo Avatar
    neo

    snoop dogs đóng phim khá chứ, đa phần là phim độc lập hoặc phim dành cho dân da màu

  4. faye Avatar
    faye

    psyko, Faye không viết bài này, chỉ dịch , nên không chắc .

    Nhưng khẳng định 1 điều, bản thân Faye thấy Mandy Moore là thành công, còn Snoop Dogg, anh đóng vài vai nhỏ, không ảnh hưởng tới danh tiếng xưa nay của anh, anh lại biết chọn vai hợp cho mình . Còn Mandy Moore, bạn có công nhận là khi cô đóng phim được không ít lời khen không ? tuy là ở lãnh vực ca nhạc, cô không nổi lắm, như thế không cho là thành công thì là gì ?

  5. ech_op Avatar
    ech_op

    ya, uổng cho J.Lo phải chi cô còn ok như hồi đóng Selena

  6. psyko Avatar
    psyko

    Mandy Moore? Snoop Dogg ? Thành công ?

    Are you kidding?

  7. beijingrocks2001 Avatar
    beijingrocks2001

    Đúng là Mariah Carey đóng phim dở thật

Leave a Reply