Kỷ xảo điện ảnh và trường phái hội hoạ thế kỷ 16

MAN NER ISM, một trường phái hội hoạ xuất hiện vào thứ 16 ở châu Âu, thể hiện một sự vật một cách cường điệu hay trái với lẻ thường để mà nhằm tăng thêm sự căng thẳng, sức mạnh, biểu cảm hay sự cao cả. Cách bố trị vật thể theo tỷ lệ không cân xứng, trải dài, uốn cong với nhưng nét vẻ kích động. Nói một cách khác, mannerim phô bày những kỷ năng của hoạ sỹ và đòi hỏi sự hiểu biết của người xem. Và gần 5 thế kỷ sau, dường như những nhà làm phim đang đưa kỷ xảo điện ảnh tiến bước trên con đường mannerism, trường phái của nghệ thuật cách điệu.

Quay về quá khứ, sự ra đời của kỷ xảo là bước tiến trong lịch sử điện ảnh, chỉ có một điều mục đích của nó đã không còn giống nhau qua thời gian. Từ những 70 trở về trước, kỷ xảo giúp những nhà làm phim có những cảnh quay thật real, thì bây giờ, cái mà những nhà làm phim mong muốn từ nó là những cảnh quay thật cool. Một sự khác biệt rất lớn.

Ta hãy lấy 1 ví dụ, khi đạo diễn John Guillermin làm lại Kingkong năm 1976, ông và nhà sản xuất đã cố gắng thuyết phục người xem rằng con gollia to lớn mà họ đang xem là thật, tiền bạc và thời gian mà 2 người bỏ ra chỉ với mục đích làm cho khán giả sau khi xem phải tin rằng King Kong đang ở một nới nào đó trên trái đất.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi với Matrix 1999, Andy và Larry Wachowski dùng tới CGI (computer-generated imagery) không phải mục đích tạo ra những hình ảnh giống như thật, mà chỉ đưa lại sự khác biệt trong cách nhìn, theo một phong cảnh “rất đỉnh”. Chắc hẳn những ai đã xem Matrix 1999 sẽ không quên cú đá nổi tiếng của Trinity, nữ diễn viên người Canada, Carrie-Anne Moss, đã thực sự đá khi … cô đang đứng yên giữa không trung. Rõ ràng anh em Wachowski không muốn thuyết phục người xem rằng họ có thể làm điều tương tự như Moss đã làm.

Một số đạo diễn đã thừa nhận sử dụng kỷ xảo theo cách kiểu cách khác thường. Ang Lee khi công bố những thông tin trước thời gian ra mắt bộ phim Hulk đã nói về sự tin tưởng của mình vào việc sử dụng CGI tạo ra cảnh “nổi điên” của con vật khổng lồ và “Dù thực hay không, với tôi chỉ là thứ 2”.

Vincenzo Natali, đạo diễn Canada, người đã từng ghi dấu tên tuổi với bộ phim Cube năm 1997 và phim gần đây nhất của ông, Nothing, nói rằng ông xem xét để tránh làm những phim giống thực tế. “Thật ra, Tôi không muốn làm những hiệu ứng sao cho tự nó giống thật”. Thay vào đó ông muốn miêu tả những con người, sức mạnh kỳ quái hơn. Không phải bao giờ Natali cũng vậy, như trong phim Cypher, nhưng ông không phủ nhận rằng cám dỗ của việc lạm dụng kỷ xảo là quá lớn và mãnh liệt. “Tôi luôn rơi vào cái bẫy của nó bất cứ lúc nào, ngoại trừ tôi có đủ may mắn hay không để có nhiều tiền thực hiện nó”. ông nói

Theo một chuyên gia kỹ xảo điện ảnh, các nhà làm phim vẫn đang cố gằng đạt đến hiệu ứng đặc biệt nhưng chúng xuất hiện một cách thuyết phục. Bới vì đó mà Allan Magled, chuyên gia trong lĩnh vực này, cho cho rằng những hiệu ứng khác thường hay phóng đại là cách thức thu hút sự chú ý của khán giả và những cần phải có những nhân tố như vậy trong các bộ phim.

Theo Magled, những kỷ xảo trong The Matrix không khác gì người khoác lên những chiếc áo mới mẻ trong các cảnh “chiến đấu”, vốn cũ và nhàm chán mà khán đã xem không biết bao nhiều lần : “Nó được đưa lên một mức độ khác”. Magled nhấn mạnh, “Tôi nghĩ mọi người đang cố làm tốt hơn người khác. Và nếu bạn có một cái gì trong có vẻ thật, chắc chắn, bạn sẽ không thể làm điều tốt hơn. Vì vậy tôi nghĩ họ thật sự muốn thêm vào cái gì đó mới mẻ”.

Đội của Magled rất cạnh tranh, khi họ muốn làm một hiệu ứng, bước đầu tiên họ sẽ xem các hiệu ứng tương tự đã xuất hiện trong các phim khác, và rồi họ sẽ cố làm tốt hơn. “Các bạn luôn muốn làm các hiệu ứng cool nhất, tôi đoán vậy, hay là tốt nhất,” Magled nói.

Những nhà làm phim trước kia mong muốn rằng các kỷ xảo của họ tiến lên mức độ cao hơn nhưng đồng thời họ cùng muốn các bộ phim phải nằm trong mức độ thực tế nhưng bây giờ điều đó không còn cần thiết nữa.

Mark Rosenthal, tác giả kịch bản, từng làm việc trong bộ phim khoa học viễn tưởng của Tim Burton : Planet of the Apes đã từng rất sợ hãi khi xem King Kong (1933) lúc nhỏ. “Nó rất thật, không một chút nghi ngờ…” ông nói. Còn bây giờ ông tin rằng kỷ xảo điện ảnh giống như “mannerism” của hội hoạ ở thế kỷ 16, và cũng như hội hoạ, ngành công nghiệp điên ảnh đã trải qua sự biến đổi tương tự bởi vì các đạo diễn đã đã đưa kỷ xảo điện ảnh đi quá xa mức có thể.

Công nghệ cao, một phần nào đó, đang cầm lái các bộ phim, một vài đạo diễn sử dụng các kỷ xảo cho chính nhu cầu, mong muốn của mình. Natali nói rằng sẽ dễ dàng gây ấn tượng với người xem bằng cái nhìn phức tạp, tinh vi hơn là cố chờ đợi câu trả lời xúc động bằng diễn xuất tốt hay những đoạn hội thoại sâu sắc.

“Tôi nghĩ chúng ta đang tham lam trong việc làm cho mọi người kinh ngạc về những gì họ thấy trên màn ảnh,” và điều đó có nghĩa là khán giả, người đang trả thêm tiền vé, phải đi đến một suy nghĩ rằng những cảnh tượng “nổ mắt” (eye-poping, những cảnh tượng không thực làm mọi người kinh ngạc sửng sốt, micti) là “chuẩn” trong những bộ phim của Hollywood. Magled nói: “Khán giản đang phải trả nhiều tiền do đó tôi nghĩ họ muốn được xem nhiều hơn.”

Tuy nhiên, Natali dự đoán rốt cuộc nó sẽ phản tác dụng. “Tôi nghĩ việc đó sẽ đến như một con lắc đung đưa theo hướng khác” Natali nói, “Khán giải rồi cũng mệt mỏi về nó, họ càng ngày càng khó khắn hơn trong việc cảm nhận. Sau này có lẻ họ muốn quay về với thực tế”. Natali không phải là không có lý, mấy ai hiểu cái gì trong Matrix ngay lần đầu tiên xem nó, rồi hai lần, ba lần hay nhiều lần sau liệu có hiểu hết? Bây giờ mọi người chấp nhận nhưng sau này sẽ là cái gì, hay rồi tất cả sẽ quen và biết cách thưởng thức những tác phẩm kiểu như vậy.

Rosenthal chỉ ra cảnh một đội quân thuỷ quái mênh mông xuất hiện trong The Return of the King là ví dụ hoàn hảo nhất cho việc kỷ xảo được đẩy lên mức độ cừng cực : thật là vô vọng và không thể để mắt chúng ta tính xem có bao nhiều “kẻ” trong đó. Rosenthal nói “Nó mang đầy tính biểu hiện hơn là thực tế”.

Những nhà làm phim trước kia không muốn gọi việc sử dụng kỷ xảo là lừa dối khán giả. Nhưng bây giờ đó là vấn đề, Rosenthal đã nhận định nó đang dần trở thành “mannerism”. có nghiã là nó sẽ bóp méo nghệ thuật, rồi suy tàn như trong quá khứ, mannerism là sự sụp đổ của thời kỳ hậu Phục hưng.

Kỷ xảo điện ảnh đã đề cập đến những cái vượt ra sự thật và bây giờ nó đang phải đề cập đến chính mình. Còn rất nhiều ý kiến khác nhau về việc này, và với khán giản cũng vậy, tuy nhiên bây giờ đa số sẽ thích thú với những bộ phim có nó. Nhưng họ sẽ không tiếc lời mà thốt lên rằng “Tôi không nhận ra…. tôi không nhận ra…. tôi không nhận ra….” hay “Tôi chẳng sợ cú đá của Trinithy, tôi né được, đó là cú đá nhố nhăng”. Ngoài ra, có điều đáng quan tâm là phim nào dùng kỷ xảo, vai trò của diễn viên không còn như trước, hảy nhìn vào danh sách đoạt giải OSCAR của LORD, hình như không có tên diễn viên!

Mọi thứ đều tự nó vận động và bị biến đổi, sự biến đổi về chất đã dẫn đến sự biến đổi lượng, còn bây giờ sự biến đổi về lượng liệu có dẫn đến sự biến đổi về chất không? Câu trả lời xin dành cho thời gian. Nhưng có một điều mà chúng ta phải tin rằng kỷ xảo điện ảnh vẫn là công cụ để tạo ra những bộ phim kinh điển của thế kỷ 21. Matrix, Lord of the Ring và các tác phẩm khác như nó vẫn là tâm điểm trong con mắt của người xem, vẫn là kẻ chiếm thế thượng phong trong những gải thưởng lớn hàng năm và “As long as there have been movies, there have been special effects, now, good bye and see you next article”.

phỏng theo CBC, micti viết theo phong cách … mannerism nốt 😀

fisrt and only MOVIESBOOM.COM

Phụ lục

“Tomb Rider không phải là phim, nó là series của kỷ xảo điện ảnh” Rosenthal

“Tôi nghĩ rất nhiều kỹ xảo của những bộ phim giống những bộ bộ phim trước” – Jeff Bond, Cinefantastique executive editor.

“Mục tiêu của các bộ phim vẫn chỉ vậy, có điều được đưa lên một mức độ khác, sáng tạo hơn bất cứ cái gì” – Magled

“Một bộ phim có kỷ xảo có nghĩa kà các nhà làm phim có thể làm ra nó và họ có tiền” – Magled

Để hiểu về đóng góp của kỷ xảo điện ảnh chủ yếu là CG các bạn có thể xem loạt bài của doc_co_cau_bai : CG …….


Posted

in

by

Comments

Leave a Reply