Tên thật:
Eric Banadinovich
Ngày sinh: 1968-08-09 Nơi sinh: Melbourne, Australia Gia đình: Cha mẹ và anh trai

Eric Bana

Profile

Nickname: Little Bana.

Gia đình : Cha tên Ivan, người Croatia . Mẹ tên Eleanor ,người Đức, có 1 người anh trai tên Anthony

Kết hôn : với Rebecca Gleeson vào năm 1997

Con : Klaus và Sophie

Công việc đầu tiên : rứa xe

Chiếc xe đầu tiên mua : chiếu Ford Falcom XB, mua năm 1974 khi 15 tuổi với giá $1000

Thần tượng: Richard Pryor :image1:

Đội thể thao yêu thích : đội bóng St. Kilda

Lên TV lần đầu tiên: biểu diễn cho show “Tonight Live” cúa Steve Vizard

Phim đầu tiên đóng : Đóng vai Con Petropoulous trong phim “The Castle”( 1997)

Eric Banadinovich sinh vào Tháng 8 ngày 9 năm 1969 tại Melbourne , Úc . Anh trai của Eric tên Anthony lớn hơn Eric 3 tuổi . Anthony là học sinh giỏi và là vận động viên bóng rổ giỏi, trong khi đó Eric thì là thằng hề trong lớp và hay dự những buổi thi tài năng . Mẹ của Eric là người Đức, một thợ cắt tóc , Cha anh người Croatia lại là công nhân lái xe . Khi còn bé, Eric kể là ” Tôi lớn lên tại thị xã Tullamarine cúa thành phố Melbourne, tôi thích đua xe , có nhiều bạn và rất quê mùa “

Sau khi rời trường , Eric đã đi chu du khắp nơi và có những công việc rất lạ đời . Lúc này anh mới bước vào 20 , anh vẫn còn đang tìm kiếm nghề mà mình yêu thích . Anh thích diễn nhưng không biết làm sao để tiến vào nghề diễn : “Tôi không hề biết mình nên tìm cách nào để học diễn, lúc đó tôi còn háo thắng lắm, nên tôi không muốn vào học tại trường nghệ thuật . “

Anh làm nhiều việc khác nhau cho tới khi anh vào làm cho 1 quán bar tại Melbourne . Anh kể : “Tại quá bar này, người ta dựng 1 sân khấu để cho những nghệ sĩ kể chuyện hài ” . Đây là động lực thúc đẩy anh trớ thành diễn viên hài .” Khiếu hài của anh đã giúp anh có buổi biểu diễn trên sân khấu “Tonight Live” lần đầu tiên . Phim truyền hình đầu tiên của anh là vào năm 1993, anh tự viết kịch bản kiêm diễn cho phim truyền hình “Full Frontal” , một phim truyền hình hài kiểu Úc . Khi show này thành công, anh được chính thức lập ra show mới cho riêng mình có tên là “Eric” vào năm 1996, nhưng show bị huỷ bỏ sau đó vì ít số khán giả xem đài .

Tuy thế, điều đó không phải là tận thế đối với anh . Anh thật sự có tài diễn hài, nên sau đó 1 năm, anh đóng vai trong phim điện ảnh đầu tiên là The Castle , phim kể về những ngày vui vẻ của 1 gia đình . Trong phim anh đóng vai 1 kế toán cho những vận động viên đánh boxing với tên là Con Petropoulous . :image2:

Cùng năm đó, anh kết hôn với Rebecca Gleeson, 1 nhân viên nhà báo . “Tôi gặp cô ấy là biết ngay cô ấy là ng` vợ tôi muốn trong tương lai .” Chắc chắn như thế và họ đã có nhau 2 người con , Klaus và Sophie .

Và rồi phim Chopper được ra mắt . Vào năm 2000, đây là phim tình cảm do 1 hãng phim độc lập . Eric đóng vai Mark “Chopper” Read, một tội phạm nổi tiếng của Úc . Chính tội phạm này đã đồng ý cho anh đóng vai này . Mark Read đã chính miệng nói : “Nếu họ cho Eric tăng cân thêm vài pounds và cắt tóc ngắn cho anh thì anh nhìn rất giống tôi ” . Và vì thế, khi vào vai, Eric cố tăng lên 30 pounds, xăm hình khắp thân mình . Tuy phim không được quảng bá rộng rãi , nhưng anh đã được giải Nam diễn viên suất sắc nhất của hiệp hội phim của Úc vào năm đó . Cũng như các giái thướng cho các giải : liên hoan phim Stockholm, giải các nhà phê bình phim Úc . ” Đó là vai kỳ lạ, rất manh động, nhiều máu me, nhiều tức giận và bạo lực ” , Eric kể lại vai diễn cúa mình .

Nhưng phim giúp anh được biết đến khắp thế giới phải là phim Black Hawk Down (2001) . Một phim chiến tranh Mỹ tại Somalia vào tháng 10 năm 1993 . Eric đã cố tập luyện cho vai cúa mình mất 5 tháng tại Morocco . Anh vào vi Norm Hoooten, 1 nhân viên máy bay . Để đóng trong phim Mỹ này, anh phải tập nói giọng Mỹ và tập luyện thể lực sao cho giống như 1 người lính . Anh học qua các cấu trúc của các loại vũ khí với các cấp cao cúa binh lính . Phim thành công và có doanh thu cao . Đó cũng là khới đầu tốt đẹp cúa anh với con đường dẫn tới Hollywood .

Kế tiếp anh trớ lại đóng phim “The Nugget ” tại Úc . Phim này là phim hài nói về 3 công nhân khám phá ra mỏ vàng . “Tôi đọc kịch bản phim này và cảm thấy như mình trớ lại thời thơ ấu ” . Năm 2003 , anh lồng tiếng cho vai chú cá Anchor, một chú cá mập ăn chay , trong phim hoạt hình Finding Nemo .

:image3:Kế đó, anh được đạo diễn nổi tiếng thế giới Ang Lee (đạo diễn phim Crouching Tiger, Hidden Dragon ) mời tham gia đóng phim The Hulk với vai Bruce Banner, 1 khoa học gia sẽ trớ thành khổng lồ màu xanh khi bị tức giận .”Tôi cảm thấy vinh hạnh và hơi run, nhưng tôi cũng tin là phải có 1 lý do nào đó đạo diễn Ang Lee mới mời tôi . Và tôi chỉ biết làm hết sức mình thôi ” . Phim được đánh giá không cao lắm nhưng Eric Bana được chú ý hơn vì đây là phim lớn trong thế giới Hollywood và dĩ nhiên cơ hội sẽ tới càng nhiều .

Tháng 4, năm 2003, đoàn làm phim Troy bắt đầu quay phim . Đạo diễn Wolfgang Peterson dựa theo truyện The Illiad của văn hào Homer để dựng Troy . Ông mời Eric đóng vai Hector, tướng cầm đầu quân lính thành Troy đối đầu với vai Achilles (do Brad Pitt) đóng . Để vào vai, Eric bắt đầu để râu , tập cưỡi ngựa , đánh nhau mất 6 tháng cực khổ . Tháng 5, năm 2004, phim ra mắt và trong tuần đầu đã thu được $45.6 triệu . Phim có khen và cũng có chê, nhưng được lợi nhất là Eric Bana, anh được khen khá nhiều . Sau khi kết thúc, anh trớ lại Úc để họp mặt với gia đình .

Eric khá mê đua xe . Anh mê xe hơi và xe gắn máy và từng đua xe rất tài . Hiên nay anh có gần 8 cái xe . Anh đeo 2 chiếc nhẫn : 1 bằng vàng và 1 bằng bạc . Chiếc bằng vàng anh đeo tay trái là nhẫn kết hôn, chiếc bằng bạc là “chiếc nhẫn đầu tiên vợ tôi tặng cho tôi khi chúng tôi còn cặp kè . Chiếc nhẫn được khắc chữ ‘coraggio ‘ trên mặt, đó là tiếng Ý có nghĩa là lòng can đảm ” . Có lẽ đó là tính cách của anh, can đảm tiến thân từ phim truyền hình hài cho tới phim điện ảnh màn ảnh rộng và anh sẽ còn tiến xa mãi trong tương lai .

Awards

Academy of Science Fiction, Fantasy & Horror Films, USA

2003 Nominated Cinescape Genre Face of the Future Award Male

for: Hulk (2003)

Australian Film Institute

2000 Won AFI Award Best Performance by an Actor in a Leading Role

for: Chopper (2000)

Chicago Film Critics Association Awards

2002 Nominated CFCA Award Most Promising Performer

Film Critics Circle of Australia Awards

2001 Won FCCA Award Best Actor – Male

for: Chopper (2000)

Logie Awards

1997 Won Logie Most Popular Comedy Personality

Stockholm Film Festival

2000 Won Best Actor

for: Chopper (2000)

Tổng hợp bởi faye

Comments

Leave a Reply