Tên thật:
Mary Louise Streep
Ngày sinh: 1949-06-22 Nơi sinh: Summit , New Jersey Gia đình: Cha, mẹ và 2 em trai

Meryl Streep

+Chapter 1 – The Early Years:

Tên khai sinh của Meryl Streep là Mary Louise Streep .Cô sinh ngày 22-6-1949 tại Summit , New Jersey .Cha là một nhân viên trong một công ty thuộc nghành dược và mẹ là một nghệ sĩ quảng cáo . Meryl có hai em trai là Harry và Dana , đã từng di cư đến Basking Ridge , sau đó chuyển đến Bernardsville , nơi tập trung đông cộng đồng dân cư giàu có ở New Yersey . Meryl còn nhớ cô như một đứa trẻ không chùn bước tính lương thiện :”..Tôi đã từng như một thứ xấu xa , khó chịu và cáu bẳn ..”.Tuy vậy , Meryl đã tự tán thưởng mình năm cô 12 tuổi khi cô hát bài “O holly Night ” tại Pháp trong một dạ tiệc mừng Giáng Sinh ở trường học .:image1:Sau đó , cô thử giọng với nhà huấn luyện danh tiếng:Estelle Liebling , người đầu tiên dìu dắt Meryl đến với nghệ thuật chân chính. Nhưng cô sớm rời bỏ những bài học khi đã trở thành tâm điểm của các chàng trai và là người dẫn đấu được hâm mộ .

Năm 14 tuổi , cô đã hiểu thấu bản chất của mình , cô đã từ chối đeo hàm răng giả và nhuộm tóc vàng .”..Đây là sự đổi mới của tôi . Một mái tóc vàng như nữ hoàng trẻ đón chờ nhưng năm tháng hoàn kim..”Meryl tyuên bố như thế .Suốt mùa bóng năm đó , Meryl hát trong đội hợp xướng , làm việc trong toà soạn báo chí của trường và tất nhiên trở nên nổi bật hơn hết trong lễ tốt nghiệp của chính cô. Cô bắt đầu diễn xuất trong trường tại Bernarssville với vai đầu tiên trong”Li’l Abner ” và “Oklahoma” Cô cùng đã hoàn tất 3 năm kho kịch nghệ của trường , tốt nghiệp năm 1975.Sau đó , Meryl đóng vai Helene trong “Amidsummer’s Night Dream”, Bertha bị ràng buộc trong “The Father “của Strindberg , “Happy End” của Hallenkjah Lil.

+Chapter 2 – The Theater Years:

Streep đến New York năm 1975 , nơi cô giữ vai trò trên sân khấu như một manager cho””Trelawney of the Wells” tại rạp chiếu bóng của Jospeh Papp. Và nơi đây được xem là nhà thứ hai của Meryl.Sau thành công ban đầu với “in “Trelawney of the Wells” , Meryl thử giọng cho hai nhà sản xuất của rạp Phoenix , cô có được vai diễn trong””27 Wagons full of Cotton” của Tenesse William và “A Memory of Two Mondays” của Arthur Miller.Meryl còn sánh vai cùng Lithgow và Hurt trong xuất phẩm kế tiếp của Phoenix “Secret Service”.Cuối cùng thì các nhà làm phim cũng chú ý đến diễn viên sân khấu. Meryl bay qua London và xuất hiện vai phụ trong phim “Julia” của Fred Zinneman , những cảnh cô xuất hiện cùng Jane Fonda và Vanessa Redgrave đã bị cắt tại phòng biên tập .”..Tôimđã mặc chiếc đầm đỏ trong mọi cảnh quay và trông thật lố bịch…” Meryl phát biểu về phim đầu tay của mình .

Jospeh Papp đã mời cô trở lại New York Shakespeare Festival cho buổi diễn tại sân khấu Delacorte tại Central Park . Cô đóng vai Princess Katherine trong “Measure for Measure” tại Henry 5 . Sau liên hoan , Meryl lại thủ vai người vợ của một tay chơi khúc côn cầu trên băng , người luôn giấu giấm bên trong những tâm trạng..trong phim “The Deadliest Season”.:image2:

+Chapter 3 -Claim to Faim on screen and TV:

Suốt những năm gian khổ, cái chết của vị hôn phu năm 1978 , Meryl làm việc cho đài NBC , “Holocaust”, một câu chuyện dài xúc động người xem toàn thế giới , nó giúp Meryl trở nên nổi tiếng trong đêm đó..Với vai diễn trong Inga Helms Weib , Meryl có giải thưởng Emmy vào năm 1979.Micheal Cimino đã chọn cô vào bộ phim gây tranh cãi của ông “The Deer Hunter” , cô diễn vai Linda , người tình của một tướng Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Vai diễn của Meryl nhận được sự khen ngợi của các nhà phê bình điện ảnh , nó giúp cô trở thành nữ diễn viên trẻ nhiều hứa hẹn của điện ảnh những năm cuối của thập kỉ 70 .Và được môi giới công nhận với đề cử Quả Cầu Vàng , Oscar đầu tiên năm 1979.

Cùng năm , Meryl xuất hiện trong “Manhattan” của Allen , cô vào vai đồng tính . Cô kết hôn với Donald Gummer .Sau đó , Meryl Streep có mặt trong “Kramer vs. Kramer “, với Dustin Hoffman , phim dựa trên cuốn tiểu thuyết ăn khách của Avery Corman.Bộ phim là câu chuyện của người phụ nữ rời xa chồng con để được là chính mình , bộ phim ra mắt năm Giáng Sinh 1979, trở thành phim thành công nhất trong năm với nhiều giải thưởng danh giá , bao gồm giải Quả Cầu Vàng cho Meryl Streep và tháng 3 _1980 , Meryl chiến thắng với giải Best Supporting Actress , một trong 5 giải Oscar mà phim đạt được .Một vai diễn khác trên màn ảnh , Karen trong “The Seduction of Joe ” của Jerry Schatzberg .

+Chapter 4-The Face of 80’s

Năm 1981 , đạo diễn Kared và Meryl Streep bắt đầu làm việc trong “The French Lieutnant’s Woman”, dựa theo tiểu thuyết của John Fowles .Meryl vỏ ra 12 tuần trước khi quay để đọc kĩ kịch bản và luyện tập, cô bỏ ra rất nhiều tâm huyết . Và vai chính trong phim là một thành công ngoài sức tưởng tượng , Meryl Streep được trao bằng danh dự từ các nhà phê bình phim Los Angeles và đã chiến thắng giải thưởng của Viện Hàn Lâm Anh . Chưa hết , Meryl còn có đề cử Oscar thứ hai cho mình { người chiến thắng là Katharine Hepburn }.Sau đó thì Meryl có mặt trong “Still of the Night” nhận được sự đánh giá cao của giớ truyề thông và các nhà chuyên môn . Nhưng phải đến vai diễn trong “Sophie’s Choice” dựa trên tiểu thuyết của William Styron{1979}, Meryl Streep trở thành nữ diễn viên được yêu mến nhất thập niên 80 .Ba năm sau giải thưởng vàng cho “”Kramer vs. Kramer”, Meryl Streep lai có được những đề cử , những giải thưởng danh tiếng nhất trên thế giới , bao gồm giải Quả Cầu Vàng , giải của Viện Hàn Lâm Anh và cuối cùng là Oscar thứ hai {tháng 3 năm 1983}. Meryl lại tiếp tục diễn xuất thần trong “Silkwood”{1983}, câu chuyện có thật về một công nhân làm phản ứng hoá học vũ khí hạt nhân , người có thể đã bị ám sát để ngăn trở việc phơi bày của cô về những hành động sai trái của nhà máy năng lượng hạt nhân.

“Silkwood” được khen thưởng nồng nhiệt , lại một đề cử Oscar vai nữ chính xuất sắc nhất cho Meryl Streep .Sau khi hợp tác với Robert De Niro trong ” Falling in Love “, vai chính trong “Plenty” của Fred Schepisi, được chiếu tại Pháp và Mỹ. Năm 1985 , Meryl nhận vai Karen Blixen trong cuốn sách “Out of Africa” của cô , được đạo diễn bởi Sydney Pollack .bộ phim được biết đến như một trong những chuyện tình tuyệt vời nhất trong lịch sử điện ảnh . Meryl một lần nữa thể hiện tài năng xuất chúng của mình . Trong khi phim thành công với 7 giải Oscar thì Meryl Streep lại không có tên trong danh sách đề cử nữ chính xuất sắc nhất , một sự nhầm lẫn nghiêm trọng .

:image3:Meryl Streep gặp Chamberlain tại nhà tù trước khi họ cùng hợp tác trong “A Cry in The Dark”, bao gồm những bạn đồng sự của cô từ “Plenty”, đạo diễn Fared và bạn diễn Sam Neill. Các nhà phê bình phim luôn bị kinh ngạc bởi Meryl Streep , người mà khó có thể nhận ra sau một nái tóc đen và một giọng hát khoẻ …Kết quả là một Cành Cọ Vàng năm 1989 tại Festival Film Cannes và một đề cử khác cho Academy Award.

+Chapter 5-Changing Genres:

Là thời kì thăng hoa của điện ảnh với các phim như “”SheDevil” , “Postcards from the Edge” năm 1990,phim có hai đề cử cho Meryl streep tại Oscar , bài hát trong phim do chính cô hát , bài “I’m Checking Out”.”Death Becomes Her”, hợp tác với Goldie Hawn và Bruce Willis , phim là một sự đổi mới trong phong cách của Meryl Streep, thắng một giải Oscar năm 1993 . The New York Times đã viết rằng :”…Meryl không hề lo lắng vì những sự thay đổi đột ngột , cô có thể nắm giữ bản năng của mình nhanh nhẹn và tinh tế, điều chứng tỏ cô là một nữ diễn viên có năng lực thật sự..”Các nhà phê bình vẫn luôn hết sức ủng hộ Meryl Streep . “The House of the Spirits” , được yêu mến và chấp nhận từ phía khán giả , trong phim là sự kết hợp của ba thế hệ chung sống trong một căn nhà với những kí ức khác nhau… “The River Wild” , đóng với Kevin Bacon là một phim về những trận cuồng xoáy của thác lũ và những cá tính khá kì lạ của những kẻ bí ẩn …”The Bridges of Madison County” của Clint Eastwood {1995}, vai diễn trong phim là một phụ nữ Ý sống ở Midwest , vo95 của một nông dân ….Một đề cử Oscar cho Meryl Streep nhưng chiến thắng không thuộc về cô..

Các phim như “Before and After”, “Marvin’s Room”, “Dancing at Lughnasa”và bộ phim xúc động “One True Thing”…Năm 1997 , cô có phim “…Frist Do No Harm “, làm cho truyền hình . Sau đó là phim “Music of My Heart” , vai diễn của Meryl Streep trong phim giúp cô có đề cử Oscar lần thứ 12 , ngang bằng với huyền thoại Katherine Hepburn cho số lần đề cử nhiều nhất trong lịch sử giải Acamedy Award.

+Chapter 6-Breaking Records:

Sau 3 năm vắng bóng trên màn bạc . Meryl đã trở lại với hai phim được xem là thành công về nghệ thuật và thương mại trong năm 2003 . Cô đóng vai Clarissa Vauginn , một biên tập đang dự định làm một buổi tiệc ăn mừng chiến thắng của người bạn cô trong “The Hours”, được đề cử Oscar thứ 13 . “Adaptiation “của Spike Jonze , Meryl thủ vai tác giả Susan Orlean , với diễn xuất thật tinh tế , mang lại cho Meryl Streep đề cử lần thứ 14 , một con số khổng lồ đã làm nên huyền thoại Meryl Streep trong lịch sử điện ảnh thế giới , vượt qua huyền thoại một thời Katharine Hepburn.

Năm 2003 , là năm mà những giải thưởng vàng luôn thuộc về cô : giải Ce’sar , giải Sư Tử Vàng tại Berlin Film Festival …Meryl đã trở lại và dẫn đầu cuộc chơi của mình , bằng chứng là các giải thưởng Quả Cầu Vàng , giải Thành Tựu Sự Nghiệp suốt đời cũng như giải thưởng nữ chính trong giải phim truyền hình hay những series ngắn năm 2004!!! :image4:

Meryl tiếp tục công việc diễn xuất của mình trên màn bạc với nhà làm phim John Frankenheimer và phim “The Manchurian Candidate”, Sau đó là vai diễn trong “Lemony Snickets A Series of Unfortunate Events”, cả hai phim đều bấm máy và ra mắt trong năm 2004….

*Awards:

2004:

– Screen Actors Guild Award (Winner) … Angels in America

– Golden Globe (Winner) … Angels in America

– Golden Satellite Award (Winner) … Angels in America03

2003

– Golden Globe (Winner) for Adaptation

– Berlinale Silver Bear (Winner) for The Hours

– César Award (Winner) … Honorary Award

– More Alpha Woman Award (Winner) … Woman of the Year

– Chicago Film Critics Award (Winner) for Adaptation

– Southeastern Film Award (Winner) for Adaptation

– Florida Film Award (Winner) for The Adaptation

2002:

– Premiere’s Icon Award (Winner) Woman of the Year

1999:

– Gotham Award (Winner) Actress of the Year

– Berlinale Kamera (Winner) for One True Thing

– Matrix Award (Winner) Woman of the Year

1991:

– American Comedy Award (Winner) for Postcards from the Edge

1990:

People’s Choice Award (Winner) … Favorite Actress & World Favorite Actress

1989:

– AFI Award (Winner) for A Cry in the Dark

– Cannes Film Festival (Winner) for A Cry in the Dark

– People’s Choice Award (Winner) … Favorite Actress

1988:

– New York Film Critics Award (Winner) for A Cry in the Dark

– People’s Choice Award (Winner) … Favorite Actress

1987:

– People’s Choice Award (Winner) … Favorite Actress

1986:

– People’s Choice Award (Winner) … Favorite Actress

– David Di Donatello Award (Winner) for Out of Africa

– Vallovid International Film Festival (Winner) for Heartburn:image5:

1985:

– David Di Donatello Award (Winner) for Falling in Love

– Kansas City Film Critics Award (Winner) for Out of Africa

1983:

– Academy Award (Winner) for Sophie’s Choice

– Boston Society of Film Critics Award (Winner) for Sophie’s Choice

– Golden Globe (Winner) for Sophie’s Choice

– National Society of Film Award (Winner) for Sophie’s Choice

– Kansas City Film Critics Award (Winner) for Silkwood

1982:

– British Academy Award (Winner) for The French Lieutnants Woman

– Golden Globe (Winner) for The French Lieutnants Woman

– Los Angeles Film Critics Award (Winner) for The French Lieutnants Woman

– New York Film Critics Award (Winner) for The French Lieutnants Woman

– Kansas City Film Critics Award (Winner) for Sophie’s Choice

1981:

– Los Angeles Film Critics Award (Winner) for The French Lieutnants Woman

– National Society of Film Award (Winner) for The French Lieutnants Woman

1980:

– Golden Globe (Winner) for Kramer vs. Kramer

– Hasty Pudding Award (Runner-Up) for Kramer vs. Kramer

– National Society of Film Award (Winner) for Kramer vs. Kramer

– American Movie Award (Winner) for The Deer Hunter

– Academy Award (Winner) for Kramer vs. Kramer

1979:

– Los Angeles Film Critics Award (Winner) for Manhattan

– National Society of Film Award (Winner) for The Deer Hunter

– New York Film Critics Award (Winner) for Kramer vs. Kramer

– Kansas City Film Critics Award (Winner) for Kramer vs. Kramer

1978:

– Emmy Award (Winner) for Holocaust (Television)

1976:

– Obie Award (Winner) for Alice in Concert

– Outer Critics Circle Award (Winner) for 27 Wagons Full Of Cotton

Theater World Award (Winner) for 27 Wagons Full Of Cotton

Tổng hợp bởi beijingrocks2001

Comments

Leave a Reply